Mời nghe Bản nhạc " Bên nhau chiều Hà Nội" do Tác giả blog sáng tác
Thứ Tư, 16 tháng 6, 2010
Thứ Ba, 15 tháng 6, 2010
Báo chí Trung Quốc ca ngợi sức mạnh quân sự Việt Nam
VIT - Tân Hoa Xã đăng tải tin cho rằng Bộ quốc phòng Việt Nam đã nhập khẩu 2 tiểu đoàn tên lửa (16 bệ phóng) đất đối không tầm xa S300PMU1 vào năm 2003.Theo như bình luận của Tân Hoa Xã, thì khả năng phòng không tầm xa của không quân Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, nó đã có thể thể hiện được sức mạnh trong tác chiến phòng không tấn công. Nếu như có vấn đề xảy ra, lực lượng phòng không - không quân của Việt Nam có thể triển khai tấn công đến các mục tiêu ở xa trên mặt đất và trên không, trên biển - nhất là khu vực vịnh Bắc Bộ. 
Bài báo còn cho biết, gần đây, Trung Quốc cũng đã trang bị 8 tiểu đoàn S300PMU1, tầm bắn 150 km. Tính năng của loại tên lửa S300PMU1 mà Trung Quốc và Việt Nam đang sử dụng có giống nhau hay không? Theo như một nguồn tin từ nước Nga cho biết: Loại tên lửa S300PMU1 mà Trung Quốc sử dụng không được trang bị tính năng tấn công các loại máy bay chiến đấu của Nga.
Việt Nam đã tiến thêm một bước trong việc thúc đẩy kế hoạch nhập khẩu loại tên lửa đất đối không S300PMU2 thậm chí là S400. Tầm bắn của hai loại tên lửa này lần lượt là 200 và 250 km. Do đã trang bị tên lửa S300PMU1 nên không quân Việt Nam được đánh giá là đội quân có sức mạnh lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
Tân Hoa Xã nhận định phía Trung Quốc, mặc dù chưa biết chính xác vị trí bố trí của hai tiểu đoàn tên lửa S300 của Việt Nam, nhưng dựa trên phương châm phòng ngự cơ bản của chiến lược quốc phòng và lịch sử tác chiến phòng không truyền thống của Việt Nam thì không khó để nhận ra rằng trọng điểm của hai tiểu đoàn tên lửa này sẽ là bảo vệ các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng và Hồ Chí Minh.
Bài viết không quên nhận xét, gần đây, không quân Việt Nam còn đăng công khai những bức ảnh về việc huấn luyện binh lính sử dụng S300PMU1, trên những tấm ảnh đó thể hiện S300PMU1 của Việt Nam sử dụng loại xe vận tải tự hành 5P85SE, bức ảnh trên cũng chứng tỏ rằng không quân Việt Nam đã được trang bị loại ra đa tầm xa 64N6E, có thể cùng một lúc tìm kiếm 300 mục tiêu và theo dõi 100 mục tiêu, cự ly tìm kiếm xa nhất là 300 km. Ngoài ra còn có loại ra đa chiếu xạ 30N6E có thể đồng thời chỉ huy 12 đầu đạn tên lửa tấn công 6 mục tiêu trên không. Không quân Việt Nam còn được trang bị loại ra đa tìm kiếm cao độ 3D loại 96L6E, cự ly thăm dò của loại ra đa này có thể đạt từ 5 – 300 km, nó đã tăng cường thêm sức mạnh thăm dò vùng trời tầm thấp. Chính vì vậy, có thể lắt đặt loại ra đa này lên trên các đài quan sát 40V6M ở độ cao khoảng 20 m thì có thể quét được 100 lượt mục tiêu cùng một lúc. Do đó mà không quân Việt Nam đang gấp rút nhập khẩu loại ra đa này nhằm tăng cường khả năng kiểm soát, thăm dò vùng trời tầm thấp khi mà Việt Nam còn đang thiếu các loại máy báo động trước. Về lý luận mà nói thì loại tên lửa S300PMU1 có khả năng đánh chặn các mục tiêu tên lửa đạn đạo và máy bay tuần tra, nó có thể chặn đường tên lửa đạn đạo trong khoảng cách 5 – 40 km, độ cao chặn đường lớn nhất có thể từ 0, 01 đến 27 km. Tốc độ đánh chặn lớn nhất của tên lửa S300PMU1/2 đối với các mục tiêu trên không là khoảng 2800 m/s.
Tân Hoa Xã cho rằng sức mạnh uy hiếp chính của loại tên lửa S300 chính là ở mức độ thăm dò tầm xa chính xác cao của nó. Trong phạm vi 300 km, một lần nó có thể quét được 300 lượt mục tiêu với độ chính xác cao, nếu như đặt một trạm ra đa 64N6E ở Hải Phòng thì có thể theo dõi hết được mọi hoạt động của khu vực Bắc vịnh Bắc Bộ và phía tây đảo Hải Nam. Tất nhiên, nếu như căn cứ vào tầm bắn 150 km của tên lửa S300PMU1 thì 50% khu vực Vịnh Bắc Bộ sẽ nằm trong tầm bắn của nó.
Phía Trung Quốc hết lời ca ngợi khả năng hoạt động theo dõi và thăm dò của máy bay chống tàu ngầm của không quân Việt Nam. Tính toán một cách chính xác thì có thể thấy rằng khả năng khống chế và theo dõi chiến trường của S300/64N6E của không quân Việt Nam sẽ khiến cho các máy bay, thậm chí thuộc thế hệ 3, của kẻ địch khó lòng xâm phạm vùng trời vùng biển của Việt Nam.
Hòa bình và tôn trọng lẫn nhau là chính sách nhất quán của Việt Nam. Dù Tân Hoa Xã có thật lòng ca ngợi hay không thì khả năng quốc phòng của Việt Nam luôn là một nhân tố góp phần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.
Mai Nga (theo xinhua.net)Tin dịch
Nguồn tin: Eastday - Ifeng
( Đây là chuyện con cáo khen con thỏ đây mà. hê hê! )

Bài báo còn cho biết, gần đây, Trung Quốc cũng đã trang bị 8 tiểu đoàn S300PMU1, tầm bắn 150 km. Tính năng của loại tên lửa S300PMU1 mà Trung Quốc và Việt Nam đang sử dụng có giống nhau hay không? Theo như một nguồn tin từ nước Nga cho biết: Loại tên lửa S300PMU1 mà Trung Quốc sử dụng không được trang bị tính năng tấn công các loại máy bay chiến đấu của Nga.
Việt Nam đã tiến thêm một bước trong việc thúc đẩy kế hoạch nhập khẩu loại tên lửa đất đối không S300PMU2 thậm chí là S400. Tầm bắn của hai loại tên lửa này lần lượt là 200 và 250 km. Do đã trang bị tên lửa S300PMU1 nên không quân Việt Nam được đánh giá là đội quân có sức mạnh lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
Tân Hoa Xã nhận định phía Trung Quốc, mặc dù chưa biết chính xác vị trí bố trí của hai tiểu đoàn tên lửa S300 của Việt Nam, nhưng dựa trên phương châm phòng ngự cơ bản của chiến lược quốc phòng và lịch sử tác chiến phòng không truyền thống của Việt Nam thì không khó để nhận ra rằng trọng điểm của hai tiểu đoàn tên lửa này sẽ là bảo vệ các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng và Hồ Chí Minh.
Bài viết không quên nhận xét, gần đây, không quân Việt Nam còn đăng công khai những bức ảnh về việc huấn luyện binh lính sử dụng S300PMU1, trên những tấm ảnh đó thể hiện S300PMU1 của Việt Nam sử dụng loại xe vận tải tự hành 5P85SE, bức ảnh trên cũng chứng tỏ rằng không quân Việt Nam đã được trang bị loại ra đa tầm xa 64N6E, có thể cùng một lúc tìm kiếm 300 mục tiêu và theo dõi 100 mục tiêu, cự ly tìm kiếm xa nhất là 300 km. Ngoài ra còn có loại ra đa chiếu xạ 30N6E có thể đồng thời chỉ huy 12 đầu đạn tên lửa tấn công 6 mục tiêu trên không. Không quân Việt Nam còn được trang bị loại ra đa tìm kiếm cao độ 3D loại 96L6E, cự ly thăm dò của loại ra đa này có thể đạt từ 5 – 300 km, nó đã tăng cường thêm sức mạnh thăm dò vùng trời tầm thấp. Chính vì vậy, có thể lắt đặt loại ra đa này lên trên các đài quan sát 40V6M ở độ cao khoảng 20 m thì có thể quét được 100 lượt mục tiêu cùng một lúc. Do đó mà không quân Việt Nam đang gấp rút nhập khẩu loại ra đa này nhằm tăng cường khả năng kiểm soát, thăm dò vùng trời tầm thấp khi mà Việt Nam còn đang thiếu các loại máy báo động trước. Về lý luận mà nói thì loại tên lửa S300PMU1 có khả năng đánh chặn các mục tiêu tên lửa đạn đạo và máy bay tuần tra, nó có thể chặn đường tên lửa đạn đạo trong khoảng cách 5 – 40 km, độ cao chặn đường lớn nhất có thể từ 0, 01 đến 27 km. Tốc độ đánh chặn lớn nhất của tên lửa S300PMU1/2 đối với các mục tiêu trên không là khoảng 2800 m/s.
Tân Hoa Xã cho rằng sức mạnh uy hiếp chính của loại tên lửa S300 chính là ở mức độ thăm dò tầm xa chính xác cao của nó. Trong phạm vi 300 km, một lần nó có thể quét được 300 lượt mục tiêu với độ chính xác cao, nếu như đặt một trạm ra đa 64N6E ở Hải Phòng thì có thể theo dõi hết được mọi hoạt động của khu vực Bắc vịnh Bắc Bộ và phía tây đảo Hải Nam. Tất nhiên, nếu như căn cứ vào tầm bắn 150 km của tên lửa S300PMU1 thì 50% khu vực Vịnh Bắc Bộ sẽ nằm trong tầm bắn của nó.
Phía Trung Quốc hết lời ca ngợi khả năng hoạt động theo dõi và thăm dò của máy bay chống tàu ngầm của không quân Việt Nam. Tính toán một cách chính xác thì có thể thấy rằng khả năng khống chế và theo dõi chiến trường của S300/64N6E của không quân Việt Nam sẽ khiến cho các máy bay, thậm chí thuộc thế hệ 3, của kẻ địch khó lòng xâm phạm vùng trời vùng biển của Việt Nam.
Hòa bình và tôn trọng lẫn nhau là chính sách nhất quán của Việt Nam. Dù Tân Hoa Xã có thật lòng ca ngợi hay không thì khả năng quốc phòng của Việt Nam luôn là một nhân tố góp phần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.
Mai Nga (theo xinhua.net)Tin dịch
Nguồn tin: Eastday - Ifeng
( Đây là chuyện con cáo khen con thỏ đây mà. hê hê! )
Thứ Tư, 9 tháng 6, 2010
Cựu bí thư tỉnh uỷ Quảng bình Nguyễn Tư Thoan
"...Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại miền bắc của Mỹ, là người sinh ra và lớn lên ở Nghệ An, nên tên tuổi của Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan quá gần gũi và quá nổi tiếng với chúng tôi. Mỗi khi đài báo nói về Quảng Bình, nói về những trận đánh phá ác liệt cùng với những chiến công hiển hánh của quân và dân Quảng Bình, chúng tôi thường nghe đến tên tuổi của Nguyễn Tư Thoan. Cũng như hồi đó Nghệ An thường nhắc đến tên tuổi Bí thư Nghệ An Võ Thúc Đồng. Nghe tới tên tuổi các vị thôi là lớp học sinh chúng tôi đã ngưỡng mộ lắm rồi, kính nể lắm rồi.
Thế nhưng cũng thời kỳ đó, chúng tôi nghe thấy một cái tin động trời: Bí thư tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan là một gián điệp, do vậy rất nhiều cuộc hành quân, chuyến hàng vận chuyển quan trọng chở khí tài vào chi viện miền nam đều được Nguyễn Tư Thoan mật báo nên bị không quân Mỹ đánh phá hủy diệt… Nguyễn Tư Thoan bị phát hiện, bị điều chuyển và bị thủ tiêu bí mật.
Thực hư chuyện này thế nào chúng tôi không biết, chỉ được nghe thấy lưu truyền tại Nghệ An trong giai đoạn 1968-1969, là lúc tôi đang học cấp III.
Gần đây, nhà thơ Đỗ Hoàng là người Quảng Bình có nhắc tới Nguyền Tư Thoan, tôi đã đặt hàng anh một bài viết thông tin về nhân vật huyền thoại này? Anh đã kịp thời đáp ứng. Mong rằng những ai sống gần gùi biết ít nhiều về nhân vật huyền thoại Nguyễn Tư Thoan, cung cấp để chúng ta cùng nhớ lại một thời gian khó và hiểm nguy không chỉ đối với cả dân tộc mà cả đối với từng số phận con người…
Ngay bây giờ thời mở cửa dân chủ nhưng những việc trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam, những người có cấp sắc bình thường trong Đảng còn không biết được, huống gì những người không đảng phái, những người ngoài Đảng. Vừa rồi có ông quan thượng đẵng về vườn nghe thiên hạ đồn thổi nhiều chuyện song chẳng biết đâu là sự thật. Sá gì chuyện Nguyễn Tư Thoan một chính trị gia cấp tỉnh bị hồi hưu cách đây gần nửa thế kỷ!
Nguyễn Tư Thoan làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Bình từ những năm 1961 đến năm 1974, hơn 13 năm ròng rã, đi suốt cuộc chiến tranh chống máy bay phá hoại của giặc Mỹ. Một nhiệm kỳ dài so với các đời Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Bình sau này.
Ông ta là một chính trị gia cấp tỉnh thuộc loại giỏi. Phong trào Quảng Bình hai giỏi (sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi) do ông phát động đề xướng và đốc chiến thực hành thành công. Ông đã dựng được ngọn cớ nông nghiệp Hợp tác xã Đại Phong đứng đầu miền Bắc thời ấy cũng là một kỳ tích.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ VI, người ta bầu ông Cổ Kim Thành làm Bí thư, còn ông Thoan được điều ra Hà Nội làm chuyên viên 6 thuộc Bộ Nông nghiệp.
Thời ấy những người dân Quảng Bình nghê đồn đại Nguyễn Tư Thoan làm gián điệp cho Mỹ nguỵ chuồn sâu leo cao để cướp chính quyền bị bắt đi tù rồi.
Đến bây giờ moị người cũng chỉ biết vậy. Ai cũng tin thế là đúng. Bởi vì có những tên luồn sâu leo cao to gấp mấy lần Nguyễn Tư Thoan mà cũng bị hạ bệ, bị đi tù, ông Thoan ăn nhằm gì!
Hồi Báo Dân (Bình Trị Thiên) tôi hay được nghe anh Phan Văn Khuyến , Phó tổng Biên tập báo một thời làm báo Quảng Bình kể về Nguyễn tư Thoan với sự cảm phục. Anh không nói gì về đời tư chỉ kể rằng Nguyễn Tư Thoan đi đầu gương mẫu, không sợ khó khăn, gian khổ, máy bay bắn phá nhưng vẫn cầm đuốc xông lên hàng trước để hàng vạn quần chúng theo sau. Vì báo Đảng gần cận với Bí thư Tỉnh uỷ nên anh Khuyến cũng được nhiều lần nghe Nguyễn Tư Thoan tâm sự. Anh Khuyễn kể: - Ông Thoan nói: - Mình cũng da thịt như mọi người, mình cũng sợ bom đạn, nhưng Bí thư mà sợ bom đạn thì hô hào quần chúng sao được, nhất là những người thuộc cấp. Mình phải lên gân cốt cho họ, nói họ mới nghe, làm họ mới phục!
Trong chiến đấu ông rất gương mẫu, dũng cảm, trong sản xuất ông Thoan cũng rất quyết đoán. Đồng ruộng Quảng Trạch không có nước quanh năm hạn hán, ông dẫn tất cả cán bộ của Ty Thuỷ lợi Quảng Bình lên Rào Nan chọn đoạn sông hẹp nhất ra lệnh đổ đất đá ngăn đập lấy nước tưới ruộng.
Kỹ sư thuỷ lợi, Trưởng Ty Thuỷ lợi xanh mắt mèo không dám can ngăn Bí thư tỉnh uỷ. Tất cả phải tuân lệnh. Thế mà đến hôm nay đập vẫn vững chắc, đồng ruộng Quảng Trạch luôn luôn có nước tưới, dân muôn năm ấm no.
Anh Phan Văn Khuyến đã viết hẳn một bài báo dài in trên báo Văn nghệ trong năm nay (2010) khen ngợi Bí thư Nguyễn Tư Thoan, đề nghị phong thưởng công trạng, lập đền thờ cho ông!
Một lần viết lịch sử giao thông Việt Nam tôi được cử vào viết lịch sử giao thông Quảng Bình. Tôi làm việc với ông Lại Văn Ly nguyên Trưởng ty giao thông Quảng Bình, Phó Chủ tịch tỉnh Quảng Bình trong những năm ông Thoan làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Sau công việc rỗi rãi tôi hỏi ông:
- Nguyễn Tư Thoan có phải gián điệp cài cắm leo cao không anh?
Ông Lại Văn Ly trả lời nghiêm túc:
- Không phải anh ạ. Ông ta có thời đi làm cảnh sát (phòng nhì - mật thám) của Pháp. Sau khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Pháp thua ông ta đi làm cảnh sát của Nhật. Hai việc này ông ta không khai trong lý lịch.
- Thế là hạ tầng công tác? – Tôi hỏi
- Đúng thế! - Ông Ly trả lời.
- Trong thời gian ông Thoan làm Bí thư có sai phạm gì không? – Tôi tiếp
- Không! Rất quyết đoán, năng động, thông minh nhưng độc đoán , quyền hành nên cấp dưới không thích - Ông Ly cho biết thêm.
Việc phát hiện hai chuyện trên theo dân gian là như thế này.
Một lần ông Nguyễn Tư Thoan ra dự đại hội Đảng, ngồi trên ghế Chủ tịch đoàn. Ở dưới có đại biểu người trong Nam từng bị ông tra tấn, giam cầm thời ông làm mật thám Pháp phát hiện ra. Ông ta liền làm việc với với tổ chức Đảng và biết đúng kể tra tấn ông ta là Nguyễn Tư Thoan (sau đổi ra Tư) đang đương chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Bình.
Mới gần đây khi viết hồi ký cho ông Mai Văn Bộ, nguyên cán bộ Uỷ ban Kiêm tra Đảng Trung ương tôi có hỏi chuyện ông Thoan, Ông Bộ cho biết thêm: - Khi ông Thoan ra làm chuyên viên Bộ Nông nghiệp có mấy lần đến gửi khiếu nại lên UBKT Đảng. Ông Bộ thụ lý việc ông Thoan (Ông Bộ thời trước chống Pháp đã làm đến Bí thư huyện uỷ một huyện ở Thanh Hoá) khuyên ông Thoan: - Đảng cho anh về hưu sớm là được rồi, anh vẫn là lão thành Cách mạng. Anh kiện nữa là anh mất sạch. Ông Thoan im lặng ra về.
Ở đời người phò thịnh chứ không ai phò suy. Thời ông Thoan nhiều kẻ xu nịnh, tâng bốc, ngay văn nghệ Quảng Bình nhiều số cũng in thơ ông. Ông gửi bài gì cũng in, viết chưa hay thì có biên tập sửa chữa lại cho đăng. Tôi nhớ ông Thoan có viết: “ Tôi tưởng vần thơ tôi đã cạn/ Tám tháng rồi tôi lại làm thơ/ Để ca ngợi quê hương Quảng Bình mình đẹp lắm/ Đẹp từ mỗi tên làng, tên núi, tên sông”
Con ông lấy gái đẹp đã đành, cháu ông để ý đến cô nào là không một cô gái làng nào từ chối mà còn tình nguyện hiến dâng nữa. Đúng là một người làm quan cả họ được nhờ.
Thời ông đương chức ông về làng Hoa Thuỷ thuộc huyện Lệ Thuỷ quê ông cho xây mộ bố mẹ to đùng, to đoàng gấp nhiều lần cái trụ sở Tỉnh uỷ sơ tán. Ông đề vào bia mộ “Đời đời nhớ ơn công lao cha mẹ”.
Việc ấy dân tình kêu than một thời.
Nhưng khi ông bị nghi là gián điệp và bị cách chức Bí thư Tỉnh uỷ thì sao?
Một lần triển lãm ảnh Bác Hồ vào thăm Quảng Bình, sau khi ông Thoan mất chức, người ta đã cắt ảnh ông đi bên Bác Hồ. Ông đến xem triển lãm thấy vậy ông bỏ về luôn.
Cái nhà ông ở trên Cộn sau khu làm việc của Tỉnh uỷ Quảng Bình những năm chiến tranh chống Mỹ, tôi thấy đúng là căn nhà cấp bốn lợp ngói nâu đã xỉn màu.
Những lần đi ngang qua đó, tôi thấy một ông lão ngồi nhổ cỏ đầu gối qua mép tai, trông rất thê thảm.
Nhiều người chỉ: - Ông Thoan Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Bình đó!
Sau đó ông chết không một tiếng tăm.
Đời chính trị nó cũng bạc thật ! ...."
Hà Nội 6 tháng 6 năm 2010
Đỗ Hoàng
(Nguồn: on net)
Mình thấy có nhiều người đọc bài này, cần lưu ý là người đăng chỉ biết dùng bài làm tư liệu, do đó sự thật đến đâu chưa dám chắc. Ông Thoan có con trai học cùng trường mình, năm 1968 thấy bị mời về nước rồi biến hẳn đến tận bây giờ, chắc do bị ảnh hưởng bởi ông bố. Gần đây, trong dịp ngồi đàm đạo cùng ông bạn làm xếp cục lưu trữ BCA, cậu cho biết tư liệu về NTT như trong bài viết là đúng, ông được nghỉ việc vì tội không thành khẩn khai trong lý lịch Đv, không có chuyện ông làm gián điệp.
Xem thêm:
http://nguyendoanmanh.blogspot.com/2011/03/bi-thu-tinh-uy-quang-binh-thoi-at-lua.html
Thứ Bảy, 15 tháng 5, 2010
Những năm tháng xa xưa
Khỏe như trâu cũng khó mà trụ lại với bệnh tật, mà ở chiến trường, ai chẳng biết điều kiện sống thật khó khăn, đói no là chuyện thường tình, riêng chuyện ăn uống cực khổ cũng đủ làm con người ta sinh bệnh. Thế hệ sau này nghe nói đến những lúc thiếu đói, thực đơn chỉ có rau tàu bay mọc dại hoặc một thứ cây gì đó mọc ở những ruộng rau tận đồng bằng Hoa hạ nước Tầu được đem phơi khô đóng bánh, khá hơn tý nữa có thêm tý ruốc cá, một thứ bột cá biển tán nhỏ cũng đóng bánh mà khi nhớ lại, tôi vẫn nghĩ rằng không biết tại sao lúc đó, mình lại có thể nuốt trôi được thứ bột người ta làm ra chắc để nuôi súc vật, khô khốc ,vàng khè, tanh tưởi, và không biết trong đó có được pha chế thêm chất phụ gia bảo quản nào không, có điều chắc chắn là thứ bột ấy để hàng năm không mốc, thế mới tài. Về những loại thực phẩm khô được ông "bạn lớn" viện trợ, chắc các cựu chiến binh còn có nhiều điều tâm đắc để kể lại hơn tôi, ở đây tôi chỉ muốn nói trong điều kiện sống cam khổ như vậy, bom đạn triền miên, tâm lý ức chế, sốt rét , thương hàn hành hạ lính ta không lúc nào ngưng nghỉ , vậy là nếu không bị thương vì bom đạn do máy bay giặc hay do đạn bắn thẳng lúc công đồn thì thế nào cũng có lúc phải đi nằm viện. Xung quanh chuyện đi viện cũng thật nhiều những kỉ niệm, những điều vui cũng có mà buồn cũng có, là lính mà , muôn vàn những chuyện tiếu lâm cười ra nước mắt và cũng không ít những bi kịch đậm chất hài hước.
Lần mò gần hết ngày giời tôi mới mò đến được bệnh viên, nó được mang tên chiến dịch, gọi là bệnh viện 139. Để đến được bệnh viện này phải vượt qua những dốc đèo kinh khủng lắm. Ai đã tìm được mấy cái hang đá này cũng thật giỏi, âm u và kín đáo, đảm bảo an toàn nhưng cũng là thử thách lớn cho đơn vị chuyển thương cũng như các ông bệnh binh như tôi, cuốc bộ đến được bệnh viện là đã khỏi năm mươi phần trăm bệnh rồi.
Lần đó tôi bị đau dạ dày, mấy ông bác sỹ đè ra tống vào cổ một ca thuốc cản quang và tìm ra mấy vết loét, vậy là tôi được ở lại điều trị. Cùng một hang nhưng khác khoa có mấy ông lính thường hay đi qua chỗ tôi nằm, ở lâu thành quen, đã quen rồi thì bỗ bã kể chuyện. Một hôm ra trời nắng sưởi cho có vi tamin D, tôi thấy ông bạn mới quen mặt mũi tái dại, da nó bợt lắm, tưởng nó cớm nắng mới hỏi, ông nhát bỏ mẹ, sao không ra ngoài cho có không khí, ở mãi trong hang trông như thằng chết trôi. Nó ầm ừ một lúc mới bảo, ông thông cảm, không phải tôi sợ bom không dám ra ngoài đâu, và nó kể cho tôi nghe một chuyện mà nói ra nghe vừa tức vừa buồn cười, anh chàng này vào chiến trường đã vài năm, chưa chết vì chiến đấu và bom đạn nhưng nghe ra oải lắm rồi, cu cậu vò tóc bóp trán nghĩ cách để khỏi trốn mà vẫn được ra Bắc,nó nghĩ chỉ có bị bệnh nan y, trong điều kiện chiến trường không chữa khỏi để về nước một cách hợp pháp, bệnh gì bây giờ, làm sao qua mắt được bác sỹ , đau đầu đau bụng tự thương đều không đạt yêu cầu, vậy là hắn nghĩ ra một loại bệnh quái chiêu ít ai nghĩ tới , nó khai bệnh với bác sỹ là bị di tinh, không biết làm sao mà đũng quần lúc nào cũng ướt nhè, khi làm xét nghiệm tinh trùng của nó, bác sỹ phán cụt đuôi hết cả, lần nào lấy mãu xét nghiệm cũng vậy ,của nó loãng toẹt ,không con tinh trùng nào ngo ngoe được vài giây. Không biết nó có hối lộ thêm cái gì cho bác sỹ không nhưng được kết luận bệnh nặng, bệnh viện không có khả năng chữa, phải đưa về tuyến sau, vậy là nó cười phe phé, Có anh cao thủ hơn, đi chữa bệnh vừa câm vừa điếc, bệnh này khó qua mặt bác sỹ, người thường chỉ cần đoàng một cái là giật mình , lộ ra là giả điếc ngay, anh chàng này định lực khá cao, bom nổ cũng coi như không biết chứ nói gì đến tiếng nổ viên đạn bé tý, vài tháng nằm viện cương quyết không nói với ai một lời, nói chung là như thật, sắp được ra Bắc điều trị rồi. Trước khi cho chuyển viện. Mấy ông bác sỹ chưa chịu thua bèn quyết định thử lại một lần cuối cùng , họ viết vào giấy cho anh ta đọc, bệnh viện cho đồng chí ăn bồi dưỡng cho khoẻ ,chuẩn bị vượt Trường sơn ra Bắc điều trị. Cu cậu hí hửng lắm, mặt tươi hơn hớn. Xuất ăn hàng ngày thường có thêm chục trứng luộc, vậy là anh ta gói nó lại để dành, kiếm một góc núi kín đáo và hoang vắng mới giở ra, bình tâm thưởng thức chục trứng chấm muối mà không lo bị đồng đội nhòm ngó.
Suất ăn thêm cứ đều đặn vài ngày không hôm nào thiếu, anh chàng yên tâm thưởng thức, phong cảnh thật đẹp, núi rừng xanh tươi, hoa cỏ đua sắc, chim hót véo von, không ai quấy rầy, bóc từng quả trứng nhẩn nha thưởng thức cũng là một thú vui hiếm có nơi lửa đạn.
Hôm đó như thường lệ, ăn cơm xong anh chàng câm điếc yên tâm trút đĩa trứng vào túi xách về, khi chiều buông sớm ,thấy bụng ngót rồi bèn theo lệ cũ, đem theo suất bồi dưỡng ra bờ suối ngồi ngắm chim cá, nhẫn nha bóc quả trứng để xơi , đập quả trứng ra thấy không bình thường, đưa lên mũi ngửi thấy có mùi, chắc trứng ung, nó nghĩ: chuyện bình thường, vứt đi đập quả khác, bị thối, bực mình quá nhưng lại vứt đi đập quả khác, quả này có vẻ thối hơn, đập hết mười quả mà quả sau thối hơn quả trước thì anh chàng tức quá chửi đổng: đ... mẹ chúng nó chứ, toàn thối thế này mà cũng cho bố mày ăn à.
Mấy ông bác sỹ nấp đâu đó liền nhảy ra: câm mà chửi được à, vậy là cu cậu lộ tẩy, chung quy lại chỉ vì cái tính nóng nẩy, bao nhiêu công lao dàn dựng, chịu đựng mấy tháng trời đi toi cả, sau vụ đó còn bị kỉ luật nặng.
Bị ốm cùng đi với tôi có ông cùng đơn vị, người Sơn tây, làm cấp dưỡng cho trạm xá tiểu đoàn,nấu ăn giỏi và hát nhạc ưỡn ẹo( tức là nhạc vàng ấy ) khá hay, mỗi khi anh ta cất giọng hát: "người mà tôi yêu, có đôi bàn tay diễm kiều, người mà tôi yêu, lấy chồng để phụ lòng tôi, vì tôi say thuốc lào..." biết là anh ta bịa nhưng nghe cái chất giọng đặc biệt của anh thì ai nấy đều cười lăn lóc, lần ấy ra bệnh viện, ở đó có một đoàn dân công Nghệ an phục vụ việc vận tải, chị em phần lớn người Hưng nguyên, anh ta mê mệt một cô gái trong đoàn dân công đó và đêm nào cũng mò sang tán tỉnh nàng, anh hát cho họ nghe và chị em rất cảm động, anh không được đẹp "chai" lắm nên chừng đó vẫn chưa đủ cho cô gái bằng lòng.
Anh chàng đã cố gắng rất lớn mà kết quả không được khả quan lắm, mặc dù anh cũng là người khá tài hoa. Nàng cũng khá xinh ,(dĩ nhiên theo tiêu chuẩn thời đó) bởi vậy có quyền kiêu kì một chút, anh thường tâm sự với tôi chi tiết cuộc tấn công không có tiếng nổ đó, và cũng như khi vượt hàng rào thép gai gặp vật cản khó khắc phục, anh cũng bi quan, chán nản và định rút lui. Những lúc như vậy, vai trò thầy dùi của tôi hết sức quan trọng. Tôi thường phải động viên an ủi và khuyến khích anh tiếp tục, đừng chán nản là hỏng việc, điều đó làm anh chàng này phấn khích trở lại nhưng có kèm theo điều kiện là tôi phải giúp hắn. Ối trời ơi! làm phúc phải tội, tự nhiên rước vạ vào thân. Nhưng đã giúp thì giúp cho trót. Từ đó trở đi, hễ cứ chiều đến là tôi phải vác cái bụng đau theo anh, khập khiễng vượt đá tai mèo đi "dân vận".
Nói thật, có thêm tôi làm bình phong cho anh cũng không có tác dụng mấy, có khi còn bất lợi vì người phụ nữ thường hay so sánh, có thêm đối tác là thêm khó khăn, cô nàng lại tưởng có thêm tôi vào danh sách người hâm mộ, và cách hành xử của nàng nhiều khi làm tôi lúng túng, vì vậy tôi khuyên anh thay đổi phương pháp tác chiến, sau nhiều ngày suy nghĩ anh gặp tôi bảo: tao nghĩ ra cách khác rồi. Cách gì vậy, nói đi tôi góp ý cho, hắn bảo : làm thơ, làm thơ tặng nàng, con gái thích tặng thơ, lãng mạn lắm!. Tôi bảo thế hả! ừ đúng đấy. Anh biết làm thơ thì tốt quá còn gì, con gái chúa là thích anh nào làm thơ lãng mạn đấy nhé. Là tôi a dua theo vậy thôi, đã biết quái gì về tâm lý đàn bà con gái đâu, hắn liền bảo, nói như mày thì còn nói làm gì, tao có biết làm thơ đâu, thế mới là vấn đề chứ, à thế mày có biết làm thơ không?
Thơ hả? là điều tôi sợ nhất đấy! tôi vội vàng chối đây đẩy, đụng đến vấn đề thơ ca hò vè là mệt lắm, tôi chối trước đi cho lành, hắn liền bảo , mày dân Hà nội, thế nào mày cũng biết làm thơ, hê hê, hắn làm như dân Hà nội sinh ra là thành bác Nguyễn Du rồi ấy, mà bác Nguyễn Du cũng không biết làm thơ tán gái, nhất là thơ tán gái hộ nữa thì càng bó tay. Anh quyết không đầu hàng, cố gắng kỳ kèo thêm, mày làm cho tao một bài thơ thôi cũng được, tao tặng nàng cho oai, sau này về đơn vị, khi nào mày về trạm xá nằm tao sẽ ưu tiên nấu riêng món ngon cho mày ăn, đồng ý chưa? Nói đến cái ăn là tôi khoái nhất rồi, ăn ngon chẳng ai chê, anh ta đưa ra cái điều trao đổi hấp dẫn quá nên tôi đành phải xiêu lòng, nhưng vẫn còn làm cao bảo, được rồi , để tôi thử xem sao , ông tưởng làm thơ mà dễ à, làm thơ là phải có hứng, có ông ngắm nhìn cảnh đẹp mà xuất khẩu thành thơ, có ông nổi hùng tâm tráng khí mà vung bút cũng thành thơ, có ông trằn trọc năm canh chỉ vì một bóng hồng ngoài khe cửa mà cũng có thơ, làm thơ tặng người tình thì phải yêu người ta lắm mới nặn ra thơ được, đây tôi có yêu đâu mà có thơ hay được, hay là tôi yêu thử lấy hứng làm thơ cho ông nhé! Cha nội sợ quá bèn bảo , thôi đi mày, đừng đùa nữa, cứ cố đi rồi tao rán thêm mấy quả trứng cho mà ăn. Được lời như cởi tấm lòng, tối đó tôi trằn trọc trên chiếc giường bệnh viện, thử đặt mình vào tâm trạng của hắn, đưa vào ngữ cảnh bom đạn chiến trường, có tý lãng mạn sách báo rồi bịa thêm tý gì đó cũng được một bài văn vần, không dám nói là thơ vì sợ các nhà thơ đích thực chê mình học đòi, hôm sau chép ra tờ giấy đưa cho hắn.
Cũng như vùng Tây Bắc Việt Nam, núi rừng Lào cứ mỗi độ xuân về lại ngập trong sắc trắng hoa ban, những cánh rừng xanh biếc trong lãng bãng mây chiều có một vẻ đẹp khó tả, lúc đó cảnh vật như một cô gái đang tuổi xuân thì hừng hực sức sống, man dại, hoang dã và khiêu khích nhưng lại thật trong trắng thơ ngây, bỗng dưng nổi cơn hứng chí đột xuất, tôi viết bài tạm gọi là thơ này để tặng chung cho những người con gái Việt Nam đã dũng cảm lên đường ra tiềntuyến, tôi ví họ như những đoá hoa ban trinh trắng, tinh khiết , những đoá hoa vẫn kiên cường nở giữa những trận mưa bê năm hai, hình ảnh bông hoa ban trắng tinh vừa nở bên cạnh một hố bom vẫn còn khét lẹt mùi thuốc súng được tôi ví với họ , và khi đọc xong tôi gật gù tự công nhận rằng thực ra bài thơ không hay lắm nhưng khi phân tích thì thấy cũng có chút ý nghĩa và cũng hơi lãng mạn, cũng phù hợp với việc đưa tặng cho cô gái, nịnh một chút, biết đâu anh chàng sẽ thành công!!!
Bài thơ viết trong tình huống ấy, đã lâu quá nên chỉ còn nhớ lõm bõm hay nói đúng hơn là quên tịt, những năm tháng gần đây, qua một người bạn thân vừa có dịp gặp lại anh này, tôi nhận được một lá thư của anh, trong đó bài thơ đã được anh nhắc lại một cách trân trọng, tôi chợt cảm thấy phổng mũi đôi chút vì ít ra, bài thơ đã giúp anh được điều gì đó và hẳn cũng để để lại những kỷ niệm thật sâu sắc trong lòng anh nên người lính đó vẫn đọc vanh vách bài thơ mặc dù hơn bốn mươi năm đã trôi qua.
Mầu trắng hoa ban
Ở đất này lạ lắm,em biết không?
Giữa đất đỏ hố bom, khói lửa khét nồng.
Vẫn có đấy, trong hoang tàn xơ xác,
Khi con én gọi xuân về, hoa ban đơm bông!
Hoa ban trắng, tình hoa sáng trong.
Lính nâng niu, cài hoa trên vành mũ
Nhành hoa rung rinh như một lời nhắn nhủ
Trong thắm biếc núi rừng có mầu trắng hoa ban
Muôn dặm hành quân, hoa nở r ực chiều vàng
Mùa xuân đến nên nhiều hoa cũng phải
Ôi diệu kỳ là sắc hoa anh muốn hái
Mầu trắng ban rừng, nở giữa đạn bom!
Mưa gió phũ phàng vẫn trong trắng sắt son!
Bài viết được trao tận tay cho khổ chủ, tuy rằng là do tôi viết nhưng nó là biểu hiện tấm l òng của người con trai đó với người mình yêu, kết quả cuộc tình đó đến đâu thì tôi không biết nhưng sau đó gặp nhau ở đơn vị thấy anh có vẻ phấn khởi lắm, từ đó mà tôi đoán rằng có lẽ, họ đã đạt được một mức độ tình cảm nào đó, tuy không thể đi đến hôn nhân nhưng hẳn đã để lại trong lòng họ những ký ức khó phai mờ, đánh dấu một thời trai trẻ hào hùng nhưng thật lãng mạn cho cả hai người, chàng trai và cô gái, họ đã đi qua chiến tranh với những tình cảm đẹp dành cho nhau, ít nhất là như vậy.
Quên chưa nói là phần tôi, sau lần nằm viện về, đơn vị lại hành quân vào trận đánh mới, mối người một hướng và chưa bao giờ tôi nhận được phần trả công của mình. Tôi vẫn mài răng chờ có dịp gặp lại để đòi nợ. Thế nào cũng có lúc,chỉ sợ lúc đó răng rụng hết rồi. :-)
Thứ Năm, 6 tháng 5, 2010
Tiếng Leng keng
Bỗng dưng, không biết vì sao trong tâm trí tôi cứ vang lên âm hưởng của một ca khúc từ xa xưa lắm rồi. Thực ra nói cho đúng giai điệu và ca từ của bài hát đó là sản phẩm của một thời bao cấp, người viết theo hợp đồng, mục đích để đáp ứng mục tiêu động viên lao động sản xuất thời đó. Nó là sản phẩm của kiểu thông tin tuyên truyền có định hướng. Vậy mà nay không biết làm sao một đoạn của bài hát cứ lặp đi lặp lại trong tôi không sao dứt đi được: " Leng keng lạch cạch... Leng keng lạch cạch đường ray xe goòng, có cô thiếu nữ ứ ứ, tay đẩy xe goòng, hò dô hò ... hò dô tay đẩy xe gòong......".
Và hôm nay, tôi bước ra đường trong một chiều Hà nội loáng nhoáng người đi, loáng nhoáng mưa, loáng nhoáng nắng, hối hả và bát nháo, đường phố vẫn còn chút náo động của những ngày vui mừng chiến thắng cách đây 35 năm mà ý nghĩa của nó không chắc là còn nhiều người thực sự biết đến. Bước chân tôi đi qua nơi mà trước kia có hai vệt đường ray chạy thẳng về Bờ Hồ, và cái tiếng leng keng lạch cạch kia lại vang lên, nhưng lần này không phải tiếng lạch cạch của chiếc xe chở than vùng mỏ mà là âm hưởng quen thuộc: Leng keng! Leng keng của chiếc xe điện, chiếc xe của một thời tuổi thơ đã đi vào dĩ vãng xa xưa, không bao giờ còn gặp lại được nữa.
Rồi chợt nhận ra một điều buồn cười là trong ngôn ngữ Việt, cái từ leng keng rất ít gặp, người ta dùng nó để chỉ tiếng kêu của chuông xe điện nhưng không hiểu vì sao xe gòong không có chuông mà cũng kêu leng keng( hay có chuông mà mình không biết). Trong tiếng Việt hiện đại, người ta không bằng lòng với việc chỉ dùng từ đó trong phạm vi hạn hẹp như vậy, thế là người ta chế thêm cho nó một ám chỉ nữa, khi ai đó có hiện tượng bất bình thường, ngoài việc nói người đó hâm, hấp, chập, mát, điên, khùng, dở hơi, hây hấy, tay nhặt lá chân đá ống bơ v.v...người ta còn gọi thằng ấy, con ấy Leng keng, ở mức độ leng keng chắc chưa đến nỗi nặng phải sang Châu quỳ, âu đấy cũng là cách gọi nhân đạo, người đó chưa điên lắm, còn cứu vãn được! Cái xe điện của tuổi thơ vẫn chạy trong một miền ký ức của những con người hoài cổ, mà có đúng là hoài cổ không? hay là chỉ nuối tiếc một giá trị đẹp đã đánh mất dưới những toà cao ốc chọc trời. Cái tiếng leng keng ngày xưa ấy nó mang giá trị nhân văn nhiều lắm, con người có tình nhiều lắm, hàng xóm láng giềng ăn ở như bát nước đầy, người đi ngoài phố cũng hình như hiền lành hơn, mấy khi nghe thấy nói đến hối lộ, tham nhũng, thành phố chỉ gói gọn trong gần chục km vuông, chưa đi đã hết, cán bộ đích thực là công bộc của dân, hễ làm việc gì cũng lo nghĩ sao cho vì dân vì nước, cái tư lợi dẫu ai đó có trót làm thì xấu hổ lắm, nói gì đến chuyện phần trăm này nọ.
Hà nội mới đang có nhiều quy hoạch, dự án rồi đề án, nghe nói nhiều lắm. Thủ đô còn sắp phi về chân núi Ba vì. Hà nội mở rộng to đùng ngã ngửa, ừ mà có gì lạ, phát triển là chiều hướng chung, thế mới oai, mới tầm cỡ với thế giới, đâu đó trên các phương tiện thông tin báo chí có bài ì xèo, cái tốt ít nói đến, cái không tốt cứ ầm ĩ. Khu phố mới, to, đẹp ,hiện đại, chưa xong đã ngập, tắc đường vẫn hoàn tắc đường. Những điều đó người ta kêu đâu có sai!

Vừa rồi nghe quy hoạch giao thông, vẽ ra đẹp lắm, các đường vành đai, các đường trục ra vào thành phố, nào tầu trên cao nào tầu dưới đất, bao nhiêu cầu vượt sông bao nhiêu đường cao tốc nghe sướng, nhưng sướng chưa được bao nhiêu lại chợt giật mình, không biết vì sao kế hoạch làm hầm, làm cầu qua Hồ Tây, đã được đưa ra, dư luận phản đối, tưởng yên rồi lại được âm mưu đưa ra tiếp, cái sự hứng thú đào khoét Hồ Tây làm sao lại đem đến sự hào hứng cho người ta vậy nhỉ, chắc không phải là chuyện bìnhthường, chợt nghe tiếng leng keng, leng keng nhưng lần này không phải từ tầu điện.
Rồi chợt nhận ra một điều buồn cười là trong ngôn ngữ Việt, cái từ leng keng rất ít gặp, người ta dùng nó để chỉ tiếng kêu của chuông xe điện nhưng không hiểu vì sao xe gòong không có chuông mà cũng kêu leng keng( hay có chuông mà mình không biết). Trong tiếng Việt hiện đại, người ta không bằng lòng với việc chỉ dùng từ đó trong phạm vi hạn hẹp như vậy, thế là người ta chế thêm cho nó một ám chỉ nữa, khi ai đó có hiện tượng bất bình thường, ngoài việc nói người đó hâm, hấp, chập, mát, điên, khùng, dở hơi, hây hấy, tay nhặt lá chân đá ống bơ v.v...người ta còn gọi thằng ấy, con ấy Leng keng, ở mức độ leng keng chắc chưa đến nỗi nặng phải sang Châu quỳ, âu đấy cũng là cách gọi nhân đạo, người đó chưa điên lắm, còn cứu vãn được! Cái xe điện của tuổi thơ vẫn chạy trong một miền ký ức của những con người hoài cổ, mà có đúng là hoài cổ không? hay là chỉ nuối tiếc một giá trị đẹp đã đánh mất dưới những toà cao ốc chọc trời. Cái tiếng leng keng ngày xưa ấy nó mang giá trị nhân văn nhiều lắm, con người có tình nhiều lắm, hàng xóm láng giềng ăn ở như bát nước đầy, người đi ngoài phố cũng hình như hiền lành hơn, mấy khi nghe thấy nói đến hối lộ, tham nhũng, thành phố chỉ gói gọn trong gần chục km vuông, chưa đi đã hết, cán bộ đích thực là công bộc của dân, hễ làm việc gì cũng lo nghĩ sao cho vì dân vì nước, cái tư lợi dẫu ai đó có trót làm thì xấu hổ lắm, nói gì đến chuyện phần trăm này nọ.
Hà nội mới đang có nhiều quy hoạch, dự án rồi đề án, nghe nói nhiều lắm. Thủ đô còn sắp phi về chân núi Ba vì. Hà nội mở rộng to đùng ngã ngửa, ừ mà có gì lạ, phát triển là chiều hướng chung, thế mới oai, mới tầm cỡ với thế giới, đâu đó trên các phương tiện thông tin báo chí có bài ì xèo, cái tốt ít nói đến, cái không tốt cứ ầm ĩ. Khu phố mới, to, đẹp ,hiện đại, chưa xong đã ngập, tắc đường vẫn hoàn tắc đường. Những điều đó người ta kêu đâu có sai!

Vừa rồi nghe quy hoạch giao thông, vẽ ra đẹp lắm, các đường vành đai, các đường trục ra vào thành phố, nào tầu trên cao nào tầu dưới đất, bao nhiêu cầu vượt sông bao nhiêu đường cao tốc nghe sướng, nhưng sướng chưa được bao nhiêu lại chợt giật mình, không biết vì sao kế hoạch làm hầm, làm cầu qua Hồ Tây, đã được đưa ra, dư luận phản đối, tưởng yên rồi lại được âm mưu đưa ra tiếp, cái sự hứng thú đào khoét Hồ Tây làm sao lại đem đến sự hào hứng cho người ta vậy nhỉ, chắc không phải là chuyện bìnhthường, chợt nghe tiếng leng keng, leng keng nhưng lần này không phải từ tầu điện.

Những chuyến tầu điện ngày xưa ấy gắn với bao ký ức tuổi thơ của tôi và chắc là của nhiều bạn nữa. Còn nhớ ngày xưa đó, tuyến đường Yên phụ, Đồng xuân, Bờ hồ có lẽ là tuyến gần gũi hơn cả, trẻ con mà , đi lậu được vé thì thích lắm, ngồi lên hàng ghế gỗ cứng quèo mà cái sung sướng lâng lâng cứ âm ỉ mãi, tầu chạy chậm lắm so với tốc độ bây giờ, chắc nó cũng đại diện cho nhịp sống thư thả của Hà nội xưa, sao hồi đó không thấy ai sốt ruột như bây giờ, tầu điện cứ thong thả đi qua những con phố yên bình, cứ đi mãi rồi cũng đến, Bưởi, chợ Mơ, Yên phụ, Hà đông hay Cầu Giấy, tất cả rồi sẽ quy về Bờ Hồ, cứ trung tâm là Bờ Hồ, không bao giờ lạc.
Mấy ông thực dân Pháp qua nước Nam đô hộ, cướp bóc cũng lắm( các cụ ta bảo thế) nhưng họ cũng làm được khối điều mà dân còn nhớ mãi, có lần tôi được nghe các bậc cao tuổi hứng chí đọc mấy câu thơ, lõm bõm thế này:
““Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài
Sinh ra đèn điện thắp hoài năm canh
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường
La ga thì ở Thụy Chương
Dây đồng, cột sắt thì đường cái quan
Bồi bếp cho chí bồi bàn
Chạy tiền ký cược đi làm sơ vơ (người bán và soát vé)
Xưa nay có thế bao giờ
Có chiếc tàu điện đứng chờ ngã ba
Đàn ông cho chí đàn bà
Hễ tàu vừa đến lấy đà nhảy lên
Ba xu ghế gỗ rẻ tiền
Toa sau thì để xếp riêng gánh gồng
Năm xu ngồi ghế đệm bông
Hỏi mình có sướng hay không hỡi mình.”
Gì thì gì nhưng phải nói quy hoạch của họ thì rất tuyệt, nhìn Hà nội cũ, nhất là khu phố Tây mới thấy các kiến trúc sư người Pháp rất giỏi, có bao giờ thấy bị ngập nước, ngay cái nhà về mùa Nồm nam cũng không bị ẩm ướt như những ngôi nhà thiết kế, xây dựng hiện đại bây giờ. Hồi đó mà nghe đến tắc đường, chắc không ai hình dung ra nó thế nào, có phải cũng một phẩn là do lợi ích từ chiếc tầu điện mang lại?
Thứ Bảy, 1 tháng 5, 2010
Thứ Hai, 19 tháng 4, 2010
Một đoạn hồi ức xa xưa
Bắt đầu từ đây, cửa rừng trông như chiếc mõm tham lam của loài quỷ dữ nuốt chửng những binh đoàn. Chúng tôi, bộ binh, pháo binh, công binh, dân công vv.. Tổng hơp các đơn vị hợp thành tham gia chiến dịch Z cùng đổ về con đường độc đạo xuyên qua những cánh rừng âm u, chạy theo triền dốc của các khe suối rồi leo lên các mỏm núi. Đường bình độ trên bản đồ thể hiện các cao độ chóng mặt, ngàn rưởi, ngàn tám rồi ngàn chín (mét). Chúng tôi tề tựu về khu vực hang đá có cái tên tự đặt nghe rất kì cục, hang Loa kèn. Ở đó dưới tán rừng nguyên sinh rậm rạp, bộ đội các đơn vị tạm nghỉ rồi tiếp tục theo nhiệm vụ mà toả về các địa điểm tập kết chuẩn bị đánh Long chẹng, nơi đặt đại bản doanh của Tướng phỉ Vàng pao.
Chủ Nhật, 11 tháng 4, 2010
Đã lâu lắm rồi!
Một ngày đẹp trời, tôi bất chợt nhận ra rằng mình đã bỏ đi một số thói quen cũ. Hà Nội đối với tôi không phải quê cha đất tổ. Do hoàn cảnh đưa đẩy mà được sống ở nơi ngàn năm đô hội này từ thuở ấu thơ. Dù cuộc đời có biết bao thăng trầm thì đi đâu về đâu, tôi vẫn cảm thấy gắn bó như không thể tách rời với Hà Nội, mảnh đất đã nuôi mình khôn lớn.
Tuổi thơ nhiều sóng gió, đất nước đầy biến động. Vậy nhưng mỗi khi đi xa có dịp quay về Hà nội, hay khi đã xế chiều tạm dừng bước phiêu du. Mỗi khi thấy tâm hồn mình lắng đọng trong những nỗi buồn vu vơ hay những khi bỗng dưng nổi cơn phiêu lãng. Tôi thường thả bước trên những con phố cổ xưa của Hà nội. Cũng có khi lặng lẽ bước đi vô định quanh hồ Hoàn kiếm để tìm kiếm một tâm tư hoài niệm. Từ thuở còn cắp sách đến trường, ngày hai buổi bước chân con trẻ đi qua con phố vắng rắc đầy hoa gạo đỏ bên hông viện bảo tàng lịch sử. Hay có những chiều trốn học ngẩn ngơ dưới những tán cây cơm nguội mọc dài theo con phố nhỏ chạy dọc bờ đê sông Hồng. Lớn hơn chút nữa, cũng có những đêm không ngủ, cùng thằng bạn chí thiết nắm tay nhau đi trong đêm Hà Nội đầy sương mà nói đủ thứ chuyện trên giời dưới bể. Phận bé nhỏ nhưng nói toàn điều to tát. Và đọng lại trong tôi không phải những điều cao siêu mà trí óc con trẻ có thể nghĩ ra mà là những đêm thành phố yên bình, người ta đi trong yên lặng, thanh thản và vô tư mặc dù bữa chiều chưa chắc đã đủ no. Điện thành phố nào đã đủ sáng để rực rỡ nhưng cũng đủ long lanh để tâm hồn người lắng đọng trong bản ba lát êm ái của mùa thu Hà nội. Khi đất nước đã qua cơn biến động, trở về đời thường với những vết thương lòng hằn sâu trong tâm tưởng. Mặc cho sự bon chen của người đời và bỏ qua cả nỗi vất vả để ổn định cuộc sống, khi có dịp rỗi rãi, tôi vẫn giữ thói quen thả bước trên những con đường cả quen và lạ của thành phố để thấy lòng mình lắng dịu. Con đường Tràng tiền đầy nắng, tiếng còi tầm nóc nhà hát lớn, tiếng xe điện gõ leng keng, bờ đất Hồ gươm chưa đổ xi măng còn in dấu các cụ rùa bám đường trèo lên mặt phố, Thuỷ tạ với những chiếc phơ rit xoa hình thoi đang chờ những đôi bạn tình để thong thả nhẹ lướt trên mặt hồ ngăn ngắt mầu xanh lục. Cũng có lúc, để tìm lại những kí ức tuổi thơ, tôi đếm bước lại những dấu chân con trẻ một thời đi tìm tình thương của mẹ. Từ mặt cát sông Hồng qua hè phố Phan đình Phùng ngập trong lá sấu rụng, vườn Bách thảo âm ỉ tiếng ve kêu rồi sang Ngọc Hà vẫn còn những ruộng hoa Păng sê, Layơn khoe sắc trong nắng chiều làng cổ. Cũng có lúc chạy theo bạn bè lên Nghi tàm, Quảng bá. Những trái ổi xanh lè, chát xít hàm răng còn đọng nguyên trong kí ức làm vật chứng cho một thời hoang dã mà vô tư đã không bao giờ gặp lại nữa.
Tuổi thơ nhiều sóng gió, đất nước đầy biến động. Vậy nhưng mỗi khi đi xa có dịp quay về Hà nội, hay khi đã xế chiều tạm dừng bước phiêu du. Mỗi khi thấy tâm hồn mình lắng đọng trong những nỗi buồn vu vơ hay những khi bỗng dưng nổi cơn phiêu lãng. Tôi thường thả bước trên những con phố cổ xưa của Hà nội. Cũng có khi lặng lẽ bước đi vô định quanh hồ Hoàn kiếm để tìm kiếm một tâm tư hoài niệm. Từ thuở còn cắp sách đến trường, ngày hai buổi bước chân con trẻ đi qua con phố vắng rắc đầy hoa gạo đỏ bên hông viện bảo tàng lịch sử. Hay có những chiều trốn học ngẩn ngơ dưới những tán cây cơm nguội mọc dài theo con phố nhỏ chạy dọc bờ đê sông Hồng. Lớn hơn chút nữa, cũng có những đêm không ngủ, cùng thằng bạn chí thiết nắm tay nhau đi trong đêm Hà Nội đầy sương mà nói đủ thứ chuyện trên giời dưới bể. Phận bé nhỏ nhưng nói toàn điều to tát. Và đọng lại trong tôi không phải những điều cao siêu mà trí óc con trẻ có thể nghĩ ra mà là những đêm thành phố yên bình, người ta đi trong yên lặng, thanh thản và vô tư mặc dù bữa chiều chưa chắc đã đủ no. Điện thành phố nào đã đủ sáng để rực rỡ nhưng cũng đủ long lanh để tâm hồn người lắng đọng trong bản ba lát êm ái của mùa thu Hà nội. Khi đất nước đã qua cơn biến động, trở về đời thường với những vết thương lòng hằn sâu trong tâm tưởng. Mặc cho sự bon chen của người đời và bỏ qua cả nỗi vất vả để ổn định cuộc sống, khi có dịp rỗi rãi, tôi vẫn giữ thói quen thả bước trên những con đường cả quen và lạ của thành phố để thấy lòng mình lắng dịu. Con đường Tràng tiền đầy nắng, tiếng còi tầm nóc nhà hát lớn, tiếng xe điện gõ leng keng, bờ đất Hồ gươm chưa đổ xi măng còn in dấu các cụ rùa bám đường trèo lên mặt phố, Thuỷ tạ với những chiếc phơ rit xoa hình thoi đang chờ những đôi bạn tình để thong thả nhẹ lướt trên mặt hồ ngăn ngắt mầu xanh lục. Cũng có lúc, để tìm lại những kí ức tuổi thơ, tôi đếm bước lại những dấu chân con trẻ một thời đi tìm tình thương của mẹ. Từ mặt cát sông Hồng qua hè phố Phan đình Phùng ngập trong lá sấu rụng, vườn Bách thảo âm ỉ tiếng ve kêu rồi sang Ngọc Hà vẫn còn những ruộng hoa Păng sê, Layơn khoe sắc trong nắng chiều làng cổ. Cũng có lúc chạy theo bạn bè lên Nghi tàm, Quảng bá. Những trái ổi xanh lè, chát xít hàm răng còn đọng nguyên trong kí ức làm vật chứng cho một thời hoang dã mà vô tư đã không bao giờ gặp lại nữa.
Hà nội của tôi trong những năm tháng đã qua, dù trong thanh bình hay đang gồng mình trong bom đạn đều thể hiện nếp thanh lịch của mảnh đất văn hiến. Con người Hà nội xưa lịch lãm, nhẹ nhàng đã thuộc bản chất, những điều tốt đẹp dễ ảnh hưởng đến lớp người từ các vùng khác nhau về hội tụ, nét đẹp các vùng miền như cùng phát huy để xứng tầm với cuộc sống kinh kì. Họ sống hoà đồng, chân tình và đầy tính nhân văn.
Có còn không con người Hà nội? Còn đấy chứ! con người vật chất vẫn thế, vẫn là ông là bà, vẫn là cô là bác là anh là chị là em là cháu là anh là tôi và đủ các thứ 'là' không bớt đi mà ngày càng thêm ra. Những tưởng phú quý sinh lễ nghĩa, đời sống vật chất được cải thiện thì con người cũng hiện đại văn minh, tình nghĩa càng được coi trọng, nét thanh lịch càng được tôn vinh để người Hà nội có thể luôn tự hào là người của đất kinh kì ngàn năm văn hiến. Than ôi cái vỏ bề ngoài con người có vẻ không thay đổi nhưng bên trong đã như khúc gỗ mục rồi. Có gì khác chăng chỉ là lớp áo quần phủ lên người. Có điều kì lạ khó cắt nghĩa là người Việt nói chung, người Hà nội nói riêng, trong chốn riêng tư hay một cuộc đàm đạo mở, cũng có khi là cả trên các phương tiện thông tin hoặc một bài viết kiểu như tôi đang làm đây đều nói lên được cả, bức xúc biết cả, cái xấu xa ngoài đường đều biết và đều muốn phê bình cả, vậy mà nói xong rồi ra đến ngoài đường là cũng bon chen, đi ẩu, chửi bậy, nhổ bậy, nhìn hàng xóm như kẻ thù, nhìn đồng đội như quỷ dữ, lừa lọc, mưu mô đá trên chèn dưới, xong rồi lại chửi bới xã hội như mình là người vô can. Thói hư tật xấu, tiêu cực xã hội tưởng như ở đâu xa lắm, lắc đầu lè lưỡi kêu ca nhưng anh bác sĩ làm tiền trên bệnh tật của người khác lại kêu ầm lên là phải chạy chọt cho con vào được trường điểm mất mấy ngàn đô, cô nhân viên công quyền hạch sách vòi vĩnh người dân lại kêu anh cảnh sát giao thông đòi tiền mãi lộ, khoác lên mình bộ cảnh phục là tưởng mình có quyền lực hơn người và xẩy ra chuyện phang vào người dân là điều tất nhiên, người dân còn vậy nói gì đến kẻ có quyền lực, phần trăm, hối lộ, chơi gái là còn nhỏ, điều lớn hơn chẳng ai dám nghĩ ra, nói ra.
Ra đường thời buổi này có lắm thị phi, vậy thì làm con rùa rụt cổ vậy, đi chùa đi chiền vậy, chùa to lắm, đền to lắm, lễ nhiều lắm, hội nhiều lắm, lao vào đi, cho nó quên đi, nghĩ làm làm gì cho nó đau đầu, chợt nhớ ngày xưa được học sử, cô giáo bảo thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, cho hút thuốc phiện, cho uống rựơu cồn, chơi leo cột mỡ để dân chúng ngu lâu khỏi theo cộng sản. Bây giờ chùa chiền, mê tín dị đoan, đĩ điếm, trộm cắp, giết người phát triển như điên, chưa kể hối lộ tham nhũng mục nát cả đất nước.
Không biết rồi sẽ đi về đâu, đôi lúc lẩn thẩn mình tự hỏi mình: Bao giờ cho đến ngày xưa!!!
Thứ Năm, 1 tháng 4, 2010
Thứ Ba, 23 tháng 3, 2010
Ca khúc "Nghĩa tình đồng đội"
***
Đồng đội! họ bên nhau trước mũi súng quân thù, họ chia nhau mẩu thuốc hút dở, đau vết thương của bạn, nhảy cỡn lên với niềm vui của nhau, lo cho nhau cả đến cái quai dép bị đứt, những điều tầm thường và cả những điều to tát. Có đồng đội nằm lại giữa rừng và có đồng đội được trở về chốn phồn hoa đô hội.
Không bao giờ họ hết nghĩ về nhau
Tôi vô cùng cảm phục họ, những người lính đã trở về nhưng vẫn không quên đồng đội mình vẫn còn nằm lại đâu đó trên những cánh rừng đại ngàn hay trên những trảng cỏ ngập đất đỏ bazan, không quản ngại tuổi cao sức yếu vẫn hăng hái lên đường với hy vọng tìm lại hài cốt bạn mình đưa trở lại quê hương.
Điều tốt nhất tôi có thể làm được là ca ngợi họ, những đồng đội của tôi bằng những ca khúc mộc mạc mà tôi vẫn thường thầm hát trong lòng mình.(nháy chuột trái vào ảnh để xem bản to hơn)
Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2010
Hữu Loan và bài thơ"Màu tím hoa sim"
Chỉ riêng với bài thơ "Màu tím hoa sim", nhà thơ Hữu Loan đã xứng đáng có một vị trí hàng đầu trong nền thi ca Việt nam. Chưa có ai bầu chọn cho ông, và rồi có lẽ cũng sẽ chẳng có một cuộc bầu chọn như vậy, nhưng chắc chắn trong lòng người yêu thi ca sẽ còn nhớ mãi về ông, người đã viết lên những dòng thơ đi sâu vào tâm hồn người đọc. Không phải ngẫu nhiên mà có ít nhất hai thế hệ người Việt Nam đã đồng cảm với ông, phải chăng những mất mát ,đau thương của ông cũng là của chính họ. Bài thơ chỉ là cảm xúc đau đớn của ông khi mất người vợ trẻ yêu dấu nhưng nó đã nói lên được tiếng lòng của rất nhiều những con tim bị bóp nát bởi chiến tranh. Thực ra, chỉ có những đất nước bị chiến tranh tàn phá, những dân tộc bị đày đoạ, chém giết triền miên, những dân tộc mà từng có một thời trông ngóng hoà bình trong vô vọng thì mới có thể viết lên được những dòng thơ đau đớn, ngậm ngùi và thương cảm đến vậy. Nỗi đau của Hữu Loan không dừng lại ở những mất mát hữu hình, nỗi đau của ông còn tái diễn trong một hình thái khác, cũng có thể nói là ông cực đoan khi có phản ứng khá gay gắt trước cách xử sự của những người đã từng là đồng đội của ông. Thái độ đó của ông là có thể hiểu được, điều không thể hiểu được là cách mà người ta đã làm ngày đó và ngay cả bây giờ khi có ai đó vẫn cố tình "nhuộm màu cho những tác phẩm không màu"
Thứ Ba, 16 tháng 3, 2010
Kinh Đồng đội
***
Bản phổ nhạc bài thơ "Kinh đồng đôi" tôi viết để dành tặng các đồng đội của tôi, những liệt sỹ đã nằm lại trên các chiến trường, trong số họ, cũng có người đã được đưa về quê hương, nhưng cũng có người vẫn còn nằm lại mãi mãi ở những miền đất xa xôi. Bản nhạc này là những nén hương mà tôi muốn thắp lên để cầu mong cho linh hồn của họ, những đồng đội, những bạn bè thân yêu của tôi được siêu thoát về cõi vĩnh hằng. Nhân ngày giải phóng đất nước 30-4, xin cầu chúc cho tất cả những đồng đội cũ của tôi được an bình, cầu chúc cho đất nước tôi mãi mãi được sống trong hạnh phúc, tự do, điều mà chúng tôi đã đem cả máu xương của mình để dành được trong các cuộc chiến chống ngoại xâm.
(click chuột trái vào ảnh để xem bản to hơn)


Bản xướng âm của ENCORE 4.5.3
Bản phổ nhạc bài thơ "Kinh đồng đôi" tôi viết để dành tặng các đồng đội của tôi, những liệt sỹ đã nằm lại trên các chiến trường, trong số họ, cũng có người đã được đưa về quê hương, nhưng cũng có người vẫn còn nằm lại mãi mãi ở những miền đất xa xôi. Bản nhạc này là những nén hương mà tôi muốn thắp lên để cầu mong cho linh hồn của họ, những đồng đội, những bạn bè thân yêu của tôi được siêu thoát về cõi vĩnh hằng. Nhân ngày giải phóng đất nước 30-4, xin cầu chúc cho tất cả những đồng đội cũ của tôi được an bình, cầu chúc cho đất nước tôi mãi mãi được sống trong hạnh phúc, tự do, điều mà chúng tôi đã đem cả máu xương của mình để dành được trong các cuộc chiến chống ngoại xâm.
(click chuột trái vào ảnh để xem bản to hơn)


Bản xướng âm của ENCORE 4.5.3
Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2010
Thứ Sáu, 12 tháng 3, 2010
Chuyện Con Mèo nhà tôi.
***
Bà hàng xóm ngoài ngõ có con mèo, nó đẻ ra ba con trắng như tuyết,nuôi được một thời gian nghe chừng oải mới giải tán, mấy con đẹp nhất cho người nhà, còn con cuối cùng, nó có cái đuôi cong như cái lò xo, bà ta biết nhà tôi thích nuôi mèo nên gọi ra cho, ừ thì nuôi, con mèo đẹp, trắng từ đầu chí đuôi, mỗi cái tội đuôi xoăn, trông rất buồn cười.
Nhà tôi ai cũng yêu nó, mèo gì khôn hơn chó, thấy người về biết chạy ra đón, ăn ở ngủ nghỉ đúng nơi đúng chỗ, biết nịnh người còn hơn quan hoạn nịnh vua. Mỗi lần có điều gì bức xúc, vuốt ve nó một hồi cũng thanh thản trở lại,tôi mà hừ một cái là chạy cong đít, lúc sau đã thấy cọ cọ vào chân nịnh rồi.
Đêm tám tháng ba, mười hai giờ, đang ngủ chợt nghe tiếng con gái khóc, cứ tưởng nó không được bạn trai cho quà ngày quốc tế phụ nữ mà tủi thân chăng, ai dè không phải, nó khóc con mèo, tôi nhìn xuống chỗ con mèo hay nằm thấy nó trợn mắt nhe răng, mềm oặt như sợi bún, ba hồn bảy vía bay mất rồi. Khắp nhà nồng nặc mùi hôi thối, nó ăn phải bả độc, nhớ lúc chiều nó tha bên hàng xóm về một con cá mỡ màng lắm, đuổi bắt nó trả lại cho người ta nhưng nó cắp thật chặt rồi phóng tít mù tắp, nó không biết là cái chết đang chờ đợi nó, bởi vì nó là một con mèo, nó đâu ngờ đến cạm bẫy của con người.
Mấy hôm trước, bà xã nhà tôi đã cảnh báo con gái phải nhốt con mèo lại, nhà hàng xóm người ta kêu nó chạy rầm rầm, tranh đực tranh cái loạn xạ, không cho người ta ngủ, nghe đâu lại còn ăn bậy nôn oẹ đâu đó, cái giống mèo này nó hay ăn cỏ rưả ruột, cách chữa bệnh của nó đấy chứ! mèo là giống leo trèo, làm sao mà giữ được nó, vậy là số nó tới rồi.
Lạ cho con người, suốt ngày cầu cúng khấn vái, chùa này chùa kia khắp trong Nam ngoài Bắc, cứ chỗ nào có ông tượng là chắp tay vái lạy, đứng trước bàn thờ Phật chân quỳ tay chắp miệng xuýt xoa na mô a di đà phật, trong nhà thì nào có thiếu gì đèn hoa, nhang khói, nói chuyện với mọi người câu trước câu sau là nhân đức, nhân quả rồi nhân hậu, vậy mà đang tâm đánh bả chết cái con mèo .
Chuyện con mèo thì quá nhỏ, cái tâm của con người mới là đáng nói vậy, khi đời sống còn thiếu thốn, vật chất chưa đầy đủ, hàng xóm láng giềng đối xử với nhau như bát nước đầy, tình người chan hoà bạn bè thân mật. Vậy mà khi đời sống khá lên, vật chất đầy đủ thì cũng là lúc tình làng nghĩa xóm bắt đầu phai nhạt, đâu đó còn coi nhau như kẻ thù, anh em ruột còn chém nhau phọt óc thì caí mạng con mèo nào có ý nghĩa gì.
Chuyện lớn chuyện nhỏ cũng chẳng khác gì nhau, ngày nay mà cũng nghĩ ông láng giềng hiền lành nhân đức như ngày xưa ông ấy nuôi mình được vài năm , ông ấy đánh nhau với xẻ thù của mình bằng thân thể của mình, nghĩ rằng ông ấy cũng thờ một ông thánh như mình chắc không chơi đểu mình thì thật là sai lầm
Thằng hàng xóm nó giầu hơn mình, nó khoẻ hơn mình, nó to như con voi, con cái nó đông như kiến. Thằng nào to mồm đòi đánh nhau với nó thì thật là ngu, nhưng thủ sẵn vài đồ chơi ngon, sẵn sàng nghênh chiến thì nó cũng rét chứ. Cái mà nhà mình cần là đoàn kết, ai lãnh đạo mà chẳng được miễn là dân giàu nước mạnh,suốt ngày ngồi đòi dân chủ rồi đa đảng tạo thành cái chợ huyên thuyên nào giúp ích được gì cho đất nước. Anh nói anh giỏi mà tham nhũng tùm lum làm như dân ngu không biết gì thì cũng thật sai lầm.
Nó giết của nhà tôi một con mèo, không có gì đảm bảo là nó sẽ không giết tiếp con khác,phải nghĩ ra cách gì đối phó lại chứ nhỉ,chẳng nhẽ thôi không nuôi mèo nữa? vậy thì chuột sẽ hoành hành dữ dội cho mà xem.
Bà hàng xóm ngoài ngõ có con mèo, nó đẻ ra ba con trắng như tuyết,nuôi được một thời gian nghe chừng oải mới giải tán, mấy con đẹp nhất cho người nhà, còn con cuối cùng, nó có cái đuôi cong như cái lò xo, bà ta biết nhà tôi thích nuôi mèo nên gọi ra cho, ừ thì nuôi, con mèo đẹp, trắng từ đầu chí đuôi, mỗi cái tội đuôi xoăn, trông rất buồn cười.
Nhà tôi ai cũng yêu nó, mèo gì khôn hơn chó, thấy người về biết chạy ra đón, ăn ở ngủ nghỉ đúng nơi đúng chỗ, biết nịnh người còn hơn quan hoạn nịnh vua. Mỗi lần có điều gì bức xúc, vuốt ve nó một hồi cũng thanh thản trở lại,tôi mà hừ một cái là chạy cong đít, lúc sau đã thấy cọ cọ vào chân nịnh rồi.
Đêm tám tháng ba, mười hai giờ, đang ngủ chợt nghe tiếng con gái khóc, cứ tưởng nó không được bạn trai cho quà ngày quốc tế phụ nữ mà tủi thân chăng, ai dè không phải, nó khóc con mèo, tôi nhìn xuống chỗ con mèo hay nằm thấy nó trợn mắt nhe răng, mềm oặt như sợi bún, ba hồn bảy vía bay mất rồi. Khắp nhà nồng nặc mùi hôi thối, nó ăn phải bả độc, nhớ lúc chiều nó tha bên hàng xóm về một con cá mỡ màng lắm, đuổi bắt nó trả lại cho người ta nhưng nó cắp thật chặt rồi phóng tít mù tắp, nó không biết là cái chết đang chờ đợi nó, bởi vì nó là một con mèo, nó đâu ngờ đến cạm bẫy của con người.
Mấy hôm trước, bà xã nhà tôi đã cảnh báo con gái phải nhốt con mèo lại, nhà hàng xóm người ta kêu nó chạy rầm rầm, tranh đực tranh cái loạn xạ, không cho người ta ngủ, nghe đâu lại còn ăn bậy nôn oẹ đâu đó, cái giống mèo này nó hay ăn cỏ rưả ruột, cách chữa bệnh của nó đấy chứ! mèo là giống leo trèo, làm sao mà giữ được nó, vậy là số nó tới rồi.
Lạ cho con người, suốt ngày cầu cúng khấn vái, chùa này chùa kia khắp trong Nam ngoài Bắc, cứ chỗ nào có ông tượng là chắp tay vái lạy, đứng trước bàn thờ Phật chân quỳ tay chắp miệng xuýt xoa na mô a di đà phật, trong nhà thì nào có thiếu gì đèn hoa, nhang khói, nói chuyện với mọi người câu trước câu sau là nhân đức, nhân quả rồi nhân hậu, vậy mà đang tâm đánh bả chết cái con mèo .
Chuyện con mèo thì quá nhỏ, cái tâm của con người mới là đáng nói vậy, khi đời sống còn thiếu thốn, vật chất chưa đầy đủ, hàng xóm láng giềng đối xử với nhau như bát nước đầy, tình người chan hoà bạn bè thân mật. Vậy mà khi đời sống khá lên, vật chất đầy đủ thì cũng là lúc tình làng nghĩa xóm bắt đầu phai nhạt, đâu đó còn coi nhau như kẻ thù, anh em ruột còn chém nhau phọt óc thì caí mạng con mèo nào có ý nghĩa gì.
Chuyện lớn chuyện nhỏ cũng chẳng khác gì nhau, ngày nay mà cũng nghĩ ông láng giềng hiền lành nhân đức như ngày xưa ông ấy nuôi mình được vài năm , ông ấy đánh nhau với xẻ thù của mình bằng thân thể của mình, nghĩ rằng ông ấy cũng thờ một ông thánh như mình chắc không chơi đểu mình thì thật là sai lầm
Thằng hàng xóm nó giầu hơn mình, nó khoẻ hơn mình, nó to như con voi, con cái nó đông như kiến. Thằng nào to mồm đòi đánh nhau với nó thì thật là ngu, nhưng thủ sẵn vài đồ chơi ngon, sẵn sàng nghênh chiến thì nó cũng rét chứ. Cái mà nhà mình cần là đoàn kết, ai lãnh đạo mà chẳng được miễn là dân giàu nước mạnh,suốt ngày ngồi đòi dân chủ rồi đa đảng tạo thành cái chợ huyên thuyên nào giúp ích được gì cho đất nước. Anh nói anh giỏi mà tham nhũng tùm lum làm như dân ngu không biết gì thì cũng thật sai lầm.
Nó giết của nhà tôi một con mèo, không có gì đảm bảo là nó sẽ không giết tiếp con khác,phải nghĩ ra cách gì đối phó lại chứ nhỉ,chẳng nhẽ thôi không nuôi mèo nữa? vậy thì chuột sẽ hoành hành dữ dội cho mà xem.
Thứ Hai, 8 tháng 3, 2010
Du lịch vườn quốc gia Xuân sơn
Vườn quốc gia Xuân sơn thuộc địa phận huyện Thanh sơn, Phú Thọ, cách Hà Nội chừng một trăm hai mươi km, đây là một khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia được tài trợ của vương quốc Đan mạch,nằm trên một khu vực rộng lớn giáp ranh ba tỉnh Phú thọ, Hoà bình, Sơn la. Nơi đây có những khu rừng nguyên sinh chưa bị tàn phá, nơi sinh sống của hai dân tộc, Mường, Dao. Các bạn quan tâm đến khu vườn này có thể xem giới thiệu chi tiết tại đây. Chúng tôi đã có một chuyến việt dã thú vị tại khu vực này, mời các bạn xem một số ảnh chụp được trong chuyến đi .













Đăng ký:
Bài đăng (Atom)